In trang này
Mười hai nhân duyên
Cập nhật ngày: 6/18/2018 9:50:29 AM
S: pratītya-samutpāda; P: paṭicca-samuppāda; Hán Việt:
Thập nhị nhân duyên
(十二因緣); nguyên nghĩa là
Duyên khởi
(緣起),
Nhân duyên
sinh (因緣生), nhưng vì luật
nhân duyên
này
bao gồm
mười hai nhân duyên
(
điều kiện
, s: nidāna) nên gọi là
Mười hai nhân duyên
(s: dvādaśanidāna hoặc dvādaśāṅga-pratītyasa-mutpāda).
Một trong những
giáo lí
quan trọng nhất của
đạo Phật
. Nguyên lí này chỉ rõ, mọi
hiện tượng
tâm lí
và vật lí tạo nên
đời sống
đều nằm trong một mối
liên hệ
với nhau
, chúng là
nguyên nhân
của một
yếu tố
này và là kết quả của một
yếu tố
khác, làm thành một vòng với mười hai
yếu tố
. Các
yếu tố
này làm loài
hữu tình
cứ mãi
vướng mắc
trong
Luân hồi
(s: saṃsāra).
Nguyên lí
mười hai nhân duyên
và
giáo pháp
Vô ngã
(s: anātman; p: anattā) là hai
giáo pháp
làm
rường cột
cho tất cả các
tông phái
Phật giáo
. Các
nhân duyên
(
nguyên nhân
chính và
điều kiện
phụ) này
gồm có
12
yếu tố
như sau:
1.
Vô minh
(無明; s: avidyā; p: vijjā), sự không thấu hiểu
Tứ diệu đế
, không hiểu Khổ là
tính chất
căn bản
của
đời sống
;
2.
Vô minh
sinh Hành (行; s: saṃskāra; p: saṅkhāra), hành động tạo nghiệp. Hành động này có thể tốt, xấu hay
trung tính
. Hành có thể ở trong ba dạng, Thân, khẩu, ý;
3. Hành sinh Thức (識; s: vijñāna; p: viññā-ṇa), làm nền tảng cho
một đời
sống tới. Thức này
đi vào
bụng mẹ. Thức
lựa chọn
cha mẹ
đúng như Hành tốt xấu
quy định
;
4. Thức sinh
Danh sắc
(名色; s, p: nā-marūpa), là
toàn bộ
tâm lí
và vật lí của
bào thai
mới, do
Ngũ uẩn
(s: pañcaskandha; p: pañca-khandha) tạo thành;
5.
Danh sắc
sinh
Lục căn
(六根; s: ṣaḍāya-tana; p: saḷāyatana), là các
giác quan
, sáu căn (năm
giác quan
và khả năng
suy nghĩ
là sáu);
6.
Lục căn
bắt đầu
tiếp xúc
với bên ngoài gọi là Xúc (觸; s: sparśa; p: phassa);
7. Xúc sinh Thụ (受; s, p: vedanā), là cảm nhận của
con người
mới với
thế giới
bên ngoài;
8.
Thụ sinh
Ái (愛; s: tṛṣṇā; p: taṇhā),
luyến ái
xuất phát
từ
ham muốn
,
vô minh
;
9. Ái sinh Thủ (取; s, p: upādāna) là điều
cá nhân
mới muốn
chiếm hữu
cho mình;
10. Thủ sinh ra Hữu (有; s, p: bhāva), là
toàn bộ
điều mà ta gọi là
tồn tại
, sự sống,
thế giới
.
11.
Hữu sinh
ra Sinh (生; s, p: jāti),
một thế
giới và
cá nhân
mới
xuất hiện
hẳn hoi
;
12.
Sinh sinh
ra
Lão tử
(老死; s, p: jarāma-raṇa), vì có Sinh nên có
hoại diệt
.
Người ta có thể nhìn
mười hai nhân duyên
dưới nhiều cách phân tích khác nhau. Cách phân tích thông
thường có
tính
thời gian
là:
yếu tố
1-2 thuộc về
đời sống
cũ,
yếu tố
3-7 là
điều kiện
và
nguyên nhân
sinh thành
của
đời sống
mới,
yếu tố
8-10 là kết quả
trong đời
sống
hiện tại
,
yếu tố
11-12 chỉ
đời sống
tương lai.
Mười hai nhân duyên
chỉ rõ
tính chất
liên hệ
lẫn nhau của dòng chảy »Tâm«, »Vật« của
thế giới
hiện tượng
, trong đó những khái niệm quan trọng nhất là »Ta«, »Người«, »Sinh vật«. Nếu thuyết
vô ngã
chỉ rõ
thế giới
và
con người
do các
yếu tố
giả hợp
kết thành
với nhau
, thật chất là trống rỗng; thì thuyết
nhân duyên
có
tính chất
tổng hợp các
yếu tố
đó, chỉ ra rằng mọi
hiện tượng
thân tâm
đều bắt nguồn từ những
hiện tượng
khác. Sự
phụ thuộc lẫn nhau
đó có thể nhìn dưới khía cạnh
đồng thời
hoặc có thứ tự
thời gian
.
Thuyết
Mười hai nhân duyên
được các trường phái
Phật giáo
giải thích
khác nhau.
Tiểu thừa
cho rằng thuyết này đã
giải thích
nguyên nhân
của khổ và tất cả mọi
pháp hữu vi
(s: saṃskṛta) đều có
nguyên nhân
và
điều kiện
mới sinh ra nên chúng
vô ngã
– không có một
tự tính
nào. Như thế thuyết
Mười hai nhân duyên
nhằm dẫn đến
quan điểm
vô ngã
.
Trong Ðại thừa,
Mười hai nhân duyên
được
sử dụng
để
chứng minh
sự
không thật
của sự vật và
đặc biệt
trong
Trung quán tông
(s: mādhyamika),
Mười hai nhân duyên
được định nghĩa là
tính Không
. Kinh
Bát-nhã ba-la-mật-đa
nhấn mạnh
rằng,
Mười hai nhân duyên
không nên hiểu theo thứ tự
thời gian
. Thuyết này nói lên sự
liên hệ
của
vạn vật
một cách tổng quát.
(
Thập nhị nhân duyên
), cũng gọi là thuyết
Duyên khởi
hay
Nhân duyên sanh
, nhưng vì
bao gồm
mười hai nhân duyên
nên thường được gọi là
Mười hai nhân duyên
. Đó là: 1.
Vô minh
(avidy), chỉ sự
ngu si
không thấu hiểu
chân lý
,
cụ thể
là
Tứ diệu đế
; 2. Hành (saṃskra), chỉ mọi hành động tạo nghiệp, có thể là tốt, xấu hay
trung tính
. Hành có thể ở trong ba dạng: thân, khẩu và ý; 3. Thức (vijđna), là
yếu tố
nền tảng cho
đời sống
sắp tới. Thức sẽ
quy định
nơi thọ sanh và
tính chất
tốt xấu của
đời sống
mới,
tùy theo
hành tốt, xấu; 4.
Danh sắc
, (nma-rpa), là
toàn bộ
mọi biểu hiện
tâm lý
và
vật lý
của
chúng sanh
, do
năm uẩn
(hay
năm ấm
) tạo thành; 5. Căn, hay sáu căn, cũng gọi là
lục xứ
(ṣaḍ-yatana) chỉ năm
giác quan
(
nhãn căn
,
nhĩ căn
,
tỉ căn
,
thiệt căn
và
thân căn
) và khả năng
suy nghĩ
(
ý căn
); 6. Xúc (sparśa), hay
lục xúc
, là sự xúc chạm giữa sáu căn với
sáu trần
, tức là
toàn bộ
mọi biểu hiện của
thế giới
bên ngoài; 7. Thọ (vedan), hay
cảm thọ
, là
cảm xúc
,
cảm giác
của
chúng sanh
khi xúc chạm với
thế giới
bên ngoài,
gồm có
những
cảm xúc
vui thích
(
lạc thọ
), khó chịu (
khổ thọ
) và
không vui
không khổ; 8. Ái (tṛṣṇ), chỉ sự
luyến ái
xuất phát
từ
ham muốn
,
vô minh
; 9. Thủ (updna), sự chấp giữ,
chiếm hữu
mọi đối tượng làm của mình; 10. Hữu (bhava), là
toàn bộ
những biểu hiện của sự
tồn tại
, như sự sống,
thế giới
. 11. Sanh (jti), sự ra đời của một
chúng sanh
,
hay nói
đúng hơn là sự bắt đầu
một đời
sống mới sau khi đã
kết thúc
đời sống
trước đó; 12.
Lão tử
(jar-maraṇa), hay già chết, là tiến trình không thể
tránh khỏi
của mọi
chúng sanh
sau khi đã bắt đầu
một đời
sống mới, nghĩa là phải già chết theo
thời gian
,
tùy theo
thọ mạng
của mình.
Quay lại
In trang này