Theo kinh Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni, Bồ tát Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Quán Thế Âm, thị hiện vào trong sáu đường sanh tử để hóa độ chúng sanh. Ngài là vị Bồ tát có thệ nguyện hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nào trí tuệ kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh, thọ mạng ngắn ngủi…
Mật tông rất tôn sùng Bồ tát và xếp Ngài vào một tôn vị trong Quan Âm bộ. Trong Mạn đà la của Thai tạng giới, tôn vị này ở tận cùng bên trái của Viện Biến tri. Phái Thai mật của Phật giáo Nhật Bản xếp Bồ tát Chuẩn Đề vào Phật mẫu, là một tôn vị trong Phật bộ.
Chuẩn Đề, Phạn ngữ là Cundi, dịch nghĩa Năng hành, Thành thực hay Thanh tịnh. Năng hành nghĩa là Bồ tát có thệ nguyện rộng lớn, trí tuệ sâu xa, đầy đủ mọi năng lực để làm bất cứ việc gì cũng đều đem đến sự lợi ích cho chúng sanh; Thành thực có nghĩa Bồ tát có công năng vi diệu, từ nơi pháp Không tưởng quán ra pháp Giả, khiến chứng đắc cảnh giới Niết bàn, bạt trừ mọi vọng huyễn sanh tử; Thanh tịnh nghĩa là Bồ tát đã chứng đắc được bản tâm, khéo an trụ trong tự tánh thanh tịnh. Chuẩn Đề gọi đủ là Thất câu chi Phật mẫu Chuẩn Đề. Theo Nhị khóa hiệp giải thì Câu chi nghĩa là trăm ức, Thất câu chi là bảy trăm ức, Phật mẫu là mẹ sanh ra chư Phật. Danh hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề có nghĩa thời quá khứ đã có bảy trăm ức Bồ tát do tu pháp môn Chuẩn Đề tam muội mà chứng quả Vô thượng Bồ đề và chúng sanh đời sau muốn thành tựu Phật quả cũng phải nương vào pháp môn này để tu hành.
Theo kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni, kim thân của Bồ tát có thân màu vàng nhạt, ngồi kiết già trên tòa sen, toàn thân có hào quang, mặc áo lụa trắng mỏng hoặc thiên y, dây thần thông, chuỗi anh lạc, đầu đội mũ, trên mặt có ba mắt, mười tám cánh tay đeo vòng xuyến, trên mỗi tay đều có pháp khí. Hai tay trên cùng bắt ấn thuyết pháp. Kế đến, phía bên phải, tay thứ hai bắt ấn thí vô úy, tay thứ ba cầm kiếm, tay thứ tư cầm tràng báu, lòng bàn tay thứ năm nắm trái cầu duyên, tay thứ sáu cầm búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm chày kim cương, tay thứ chín cầm chuỗi anh lạc. Phía bên trái, tay thứ hai cầm cờ báu như ý, tay thứ ba cầm hoa sen hồng nở, tay thứ tư cầm cái bình, tay thứ năm nắm dải lụa, tay thứ sáu cầm bánh xe pháp, tay thứ bảy cầm vỏ ốc, tay thứ tám cầm hiền bình, lòng bàn tay thứ chín nắm hộp kinh Bát Nhã chữ Phạn. Những pháp khí Bồ tát cầm nắm ở hai tay trái phải khác nhau mang ý nghĩa thâm sâu trong diệu dụng độ sanh của Ngài.Tayphía bên phải, Bồ tát nắm những khí vật hung dữ như chày, móc câu, búa… là những vật dụng để hàng phục chúng sanh cang cường, khiến họ quy hướng Chánh pháp. Còn tay phía bên trái lại gồm các vật báu như hoa sen, dải lụa, hộp kinh… có nghĩa sau khi đã hàng phục lại ban phát cho chúng sanh những thánh tài Phật pháp để họ có thể tu tập giải thoát. Hình ảnh Bồ tát cầm nắm pháp khí sai khác như thế là nhằm biểu lộ uy lực vĩ đại trong việc hàng trừ ma chướng và công năng mầu nhiệm ủng hộ người tu của Ngài.
Bồ tát vì thương tưởng chúng sanh trong thời mạt pháp vốn nhiều chướng nạn như thân đa tật bịnh, trí tuệ kém cỏi hoặc lỡ đã tạo các ác nghiệp sâu dày… nên Ngài đối trước Phật tuyên nói thần chú, để giải trừ các hoặc nghiệp cho chúng sanh. Kinh Chuẩn Đề có nói: “Bấy giờ Đức Phật trụ tại vườn cây của hai ông Kỳ Đà, Tu Bạt, được bốn chúng và tám bộ cung kính vi nhiễu, lúc đó Bồ tát Chuẩn Đề vì thương tưởng đến chúng sanh thời mạt pháp nghiệp dày phước mỏng, nên Ngài vào định Chuẩn Đề tam muội, rồi thuyết pháp, thuật lại thần chú này là chỗ bảy trăm ức Đức Phật đã nói: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu tri nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha”.
Oai lực của thần chú Chuẩn Đề là bất khả tư nghì, như đã nói, bảy trăm ức Đức Phật quá khứ nhờ trì niệm thần chú này mà thành tựu Phật đạo. Cũng theo kinh Chuẩn Đề: “Người trì tụng thần chú này đủ chín mươi muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, tứ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến các nhà thế tục nào bất luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng thần chú, liền được tiêu trừ tai nạn, bệnh hoạn và tăng nhiều phước thọ. Tụng đủ bốn mươi chín ngày, liền được Bồ tát sai hai vị Thánh giả để thường phò hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi”.
Người nào cầu trí tuệ, hoặc mong tiêu trừ chướng nạn, hoặc cầu được pháp thần thông, hoặc cầu Vô thượng Bồ đề… chỉ cần y theo pháp này thiết đàn, tụng đủ một trăm muôn biến, thì những người này liền đặng ở nơi Tịnh độ của chư Phật, được nghe pháp mầu chứng quả Vô sanh.
Bồ tát Long Thọ – một trong bốn vị Bồ tát có công lớn chấn hưng Phật giáo Đại thừa, khi sanh tiền Ngài chuyên trì tụng thần chú này. Ngài có làm bài kệ tán thán Bồ tát Chuẩn Đề để mọi người mỗi khi đọc tụng thần chú này được thêm phần tín tâm, tăng trưởng lòng ngưỡng mộ và dễ thành tựu sự ngưỡng mộ và dễ thành tựu sự cảm ứng, gia hộ của Ngài.
Khể thủ quy y Tô tất đế
Đầu diện đảnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
(Cúi đầu lạy pháp Tô tất đế
Chân thành đảnh lễ bảy ức Phật
Con nay ca ngợi Đức Đại Chuẩn Đề
Xin Ngài duỗi lòng từ bi gia hộ).
Bài kệ bốn câu, câu đầu kính lạy Pháp bảo, câu hai kính lạy Phật bảo và câu ba kính lạy Tăng bảo mà đại diện là Bồ tát Chuẩn Đề, câu bốn là cầu xin Tam bảo thùy từ gia hộ cho mình khi trì tụng thần chú này được thành tựu mọi công đức từ bi và trí tuệ như Bồ tát Chuẩn Đề.
Kinh Duy Ma nói: “Bồ tát vốn không có bệnh, nhưng sở dĩ bệnh là vì chúng sanh bệnh”. Chúng sanh ở thời mạt pháp nghiệp chướng nặng nề. Vì thế, trong các pháp hội lúc Phật thuyết pháp, có rất nhiều vị Bồ tát đã đối trước Phật phát nguyện hộ trì Chánh pháp và ủng hộ chúng sanh tu tập trong đời mạt pháp về sau.
Bồ tát Chuẩn Đề cũng là một trong các vị Bồ tát phát nguyện hộ trì người tu tập trong thời mạt pháp gặp nhiều chướng ngại. Do vậy, mỗi hành giả trên bước đường tu cần đặt trọn vẹn niềm tin và tâm thành kính lễ, trì niệm thần chú Chuẩn Đề để cầu Bồ tát gia hộ, ngõ hầu vượt thoát mọi chướng duyên là điều không thể thiếu trong các thời khóa công phu tu niệm hàng ngày của bản thân mình.
Đức Chuẩn Đề vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu.
Ngài thường thuyết kinh Đà La Ni, nguyện cầu cho tất cả trong thế gian và xuất thế gian đều thành tựu những sự nghiệp tu tập. Vì tấm lòng từ bi vô hạn của ngài với quần sanh như mẹ thương yêu đám con khờ, nên kêu là Phật Mẫu. Ngài thường diễn nói rằng: “Chân như thiệt và tánh chân thường của tất cả chúng sanh xưa nay đều sẵn có trong bản giác chư Phật vậy, nên trong đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi hà sa. Nhưng ngặt vì cứ hủy báng chánh pháp, chẳng tin lời của Phật, tự mình tổn cho mình, nên phải trầm luân đoạ lạc, dẫu cho ngàn vị Phật ra đời cũng khó mà cứu chữa đặng.” Ngài thấy vậy nên mới sanh lòng từ mẫn, lập pháp môn phương tiện mà điều phục các việc trần cấu của người sơ cơ nhập đạo, và muốn đồng với chư Phật một nguồn giác, để dứt chỗ vọng mà quy về nơi chân.
Nay xin tuyên dương bửu tượng của đức Chuẩn Để ra đây, đặng cho những người mộ đạo chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được phước vô lượng vô biên.
Bửu tượng của ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng. Ngài chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ vạn. Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng, hai bên cánh tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ.
Trên đầu thì đội mão hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai.
Nơi mặt ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy coi rất sắc sảo, dường như chăm chỉ ngó các chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn vậy.
ẤN CHUẨN ĐỀ
Toàn thân của ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh.
Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn Đề, như tướng đương lúc thuyết pháp.
Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt kiết ấn thí vô uý.
Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm.
Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu.
Tay trái thứ năm cầm một sợi dây kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả.
Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa.
Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu.
Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang.
Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát Nhã Ba La Mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài.
Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là bửu tượng của ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiến vọng mà quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chân tâm hiển hiện.
Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả Bồ Đề nữa.
Song đương thời kỳ mạt pháp, những người sơ cơ hành giả, tam nghiệp chưa thuần, chẳng hay làm theo phương pháp chư quán, nên tâm sanh biếng nhác, thì tự nhiên phải mất hẳn hột giống bồ đề. Nếu ai nương theo kinh pháp của ngài mà thọ trì, thì mau đặng chỗ linh nghiệm. Đương lúc quán tưởng thần chú của ngài, thì cần nhất phải tương phù, thì nẻo sanh tử nào mà ra chẳng khỏi, chỗ niết bàn nào mà chứng chẳng đặng!
Vậy nên phải ân cần chuyên chú mà tu tập theo yếu pháp của ngài, thì sẽ thấy rõ các việc hiệu quả. Nghĩ coi, từ đời vô thủy trải vô lượng số kiếp nhẫn nay, chúng sanh chỉ bị màn vô minh che lấp, mắt chánh nhãn phải lu mờ, rồi vọng tâm phấn khởi, thường tạo nghiệp đa đoan, cho nên phải bị luân hồi trong vòng lục đạo và đọa lạc vào nẻo tam đồ.
Ai là người có chí nguyện muốn ra khỏi cái nạn khổ ấy, đặng mau đến chỗ diệu quả vô thượng bồ đề, thì phải nhất tâm chân thật đến trước thánh tượng, mà đứng cho ngay và chấp tay đảnh lễ, chí tâm quán tưởng tôn dung của ngài và chuyên niệm thập phương Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, thi thể của ta như hư không, chẳng có chỗ nào là chỗ chướng ngại, và tánh lại thường trụ, đoạn trừ đặng các tướng qua lại động tịnh. Hễ có cảm thì có ứng là lẽ tất nhiên như vậy. Bởi vì ngài thường mẫn niệm các chúng sanh trong đời vị lai, phước căn thiển bạc và ác nghiệp dãy đầy, nên mới lập ra một pháp môn quán tưởng có chín chữ Phạm là: “Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha.” Nếu vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt “Viên minh bố liệc phạm thơ đồ” rồi mỗi đêm thường quán tưởng, thì các tội đều tiêu diệt và sẽ được tăng ít phước điền nữa. Chí như người tại gia hay là người xuất gia mà tu tập theo hạnh chân ngôn nơi trên đây, và tụng trì chú Đà La Ni cho đủ chín mươi muôn biến, dẫu cho vô lượng kiếp đến nay có tạo những tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng, phải mắc vào ngũ vô gián tội đi nữa, thì cũng thảy đều tiêu diệt tất cả.
Chú Đà La Ni chép y dưới đây:
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.
Nếu trì tụng được như vậy, thì đến ngày thọ chung đặng thác sanh vào chỗ thiện duyên và hưởng nhiều sự khoái lạc nữa.
Nói về phần hiệu quả của những người tại gia, tu theo pháp tam quy ngũ giới, một lòng kiên cố, chẳng có chút nào thối chuyển, mà lại có lòng xu hướng và trì tụng chú Đà La Ni, thì kiếp sau sẽ sanh về cõi trời, hưởng phước đức đời đời, hay là sanh trong cõi nhana gian, hoặc làm vị quốc vương, hoặc làm bậc công hầu… thường gần gũi với các vị thánh hiền mà chư thiên hay ái kính, thường hết lòng ủng hộ gia trì, chẳng khi nào bị đọa vào đường ác thú.
Còn nếu những người ấy ra kinh doanh trong trường thế cuộc, thì không có tai hại gì, cho đến nghi dung cũng đoan chánh, lời nói rất ôn hòa, tâm không phiền não, an nhàn tự tại, lui tới thong dung, hưởng phước một đời, rất nên mỹ mãn.
Nói về phần hiệu quả của các vị xuất gia, nếu giới cấm đã hoàn toàn, công hạnh đã thuần phục, mỗi ngày ba thời tụng niệm, rồi y theo giáo pháp của đức Chuẩn Đề mà tu hành, và chí nguyện cầu đến chỗ tất địa xuất thế gian của chư Phật, thì tự nhiên tâm không sát ngại, tánh lại viên minh, một màu thanh tịnh, không còn trước nhiễm nơi cảnh hữu vi, chỉ thấy định huệ hiện tiền. Chừng đó sẽ chứng đặng quả địa Ba La Mật rất viên mãn, rồi có ngày sẽ chứng đến quả vô thượng chánh đẳng Bồ đề. Thoảng như quán tưởng thấu đáo tới chỗ thâm lý, thì đương lúc hiện tại cũng chứng được Phật quả đại thừa. Có phải là pháp môn của đức Chuẩn Đề rất vi diệu và rất thuần túy hay không?
Tuy chân ngôn từ ngữ như vậy, chớ toàn thị là vô tướng pháp giới, mà lục độ và vạn hạnh cũng là từ trong pháp giới lưu bố ra. Nói tóm lại, đức Chuẩn Đề Phật Mẫu là một vị pháp thân Bồ tát ở cõi trang nghiêm thế giới, không có giáng sanh nơi cõi nhân gian. Song giáo pháp của ngài rất bí mật mà nay được rõ biết đây, là nhờ đức Thích Ca giải rõ chỗ lý địa và hình tướng, nên người sau mới biết công đức và họa bửu tượng mà thờ như vậy.
T.N.L