Dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có chư Tôn đức HĐCM, HĐTS GHPGVN trú xứ Thừa Thiên Huế; chư Tôn đức Giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh; chư Tôn đức Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; chư Tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện, Niệm Phật đường cùng quý Đạo hữu Phật tử các giới.
Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu (1921-2001)
Cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu họ Võ, húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tự Trí Đức, hiệu Thiện Siêu. Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong một gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh TT. Huế.
Thân phụ là Cụ ông Võ Trọng Giáng Pháp danh Tâm Lương, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết Pháp danh Nguyên Điền. Ngài là con trưởng trong một gia đình có 5 anh em (3 trai, 2 gái). Người em kế cũng xuất gia, đó là cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Lâm Đồng; Trú trì chùa Phước Huệ (Bảo Lộc).
Vốn có túc duyên với Phật pháp, năm 14 tuổi (1935), được sự đồng ý của song thân, Hòa thượng xin xuất gia. Ban đầu, Ngài được gởi vào tu ở chùa Quan Thánh (còn gọi là chùa Ông, gần chùa Diệu Đế – Huế) với thầy Mật Khế.
Thuở nhỏ, Ngài là người hiền lành, thông minh và hiếu thuận. Ngài được song thân cho học chữ Hán với các vị thâm nho nổi tiếng ở trong làng. Những sách Ngài đã được học qua thời bấy giờ như Tam tự kinh, Minh tâm bảo giám... và được Thầy yêu bạn mến. Ở chùa Quan Thánh được một thời gian ngắn, Ngài được lên học Phật pháp tại chùa Trúc Lâm, xã Thủy Xuân – Huế. Khi Hội An Nam Phật học mở trường để đào tạo Tăng tài, Ngài được tuyển chọn vào học lớp này, do Hòa thượng Giác Tiên chứng minh chủ trì, Hòa thượng Trí Độ làm Đốc giáo, Cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám và một số vị Cư sĩ trí thức có nhiệt tâm với đạo phụ giảng. Đồng học lớp này với Ngài có rất nhiều Hòa thượng như: Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Trí Nghiễm... Trường được đặt tại chùa Báo Quốc. Đây là trường Phật học đầu tiên của Hội An Nam Phật học mở.
Gần 10 năm (1936-1945) theo học các lớp Sơ, Trung, Đại học Phật học, Hòa thượng đã Tốt nghiệp hạng ưu. Năm 28 tuổi (1949), được Hòa thượng Bổn sư là Đại lão Hòa thượng Giác Nhiên cho phép, Ngài thọ giới Cụ túc tại Giới đàn Báo Quốc – Huế (1949), do cố Đệ nhất Tăng thống Tịnh Khiết làm Đàn đầu Hòa thượng.
Đến năm 1944, do hoàn cảnh chiến tranh nên Trường lại được chuyển lên Tòng lâm Kim Sơn, xã Lựu Bảo, ngoại ô kinh thành Huế. Đây là Tòng lâm duy nhất của Phật giáo Trung Phần lúc bấy giờ. Tại đây, Hòa thượng cùng với quý Hòa thượng Trí Quang, Trí Tịnh, Trí Nghiễm... vừa là Giảng sư của Hội, vừa phụ trách giảng dạy các lớp Sơ và Trung đẳng của Trường.
Năm 26 tuổi (1947), Ngài được Giáo hội cử làm Trú trì chùa Từ Đàm – Huế và giảng dạy cho Tăng Ni ở Phật học đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Đức – Huế.
Năm 1951, Hòa thượng được mời tham gia phái đoàn Phật giáo miền Trung dự Hội nghị Thống nhất Phật giáo ba miền tại chùa Từ Đàm – Huế.
Từ năm 1951-1955, Hòa thượng được bầu làm Chánh Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên. Chính trong thời gian này, Ngài đã ra quyết định hợp thức hóa nội qui thành lập các Khuôn hội Tịnh độ trong khắp toàn tỉnh.
Năm 1957, Tổng Trị sự Phật giáo Trung phần cử Ngài làm Đốc giáo Phật học đường Trung Việt tại chùa Hải Đức - Nha Trang.
Năm 1962, Ngài được mời ra Huế đảm trách chức vụ Hội trưởng Hội Phật học Thừa Thiên và tham gia giảng dạy cho Tăng Ni ở Phật học đường Báo Quốc, Ni viện Diệu Đức cũng như tham gia các Phật sự tại Tổng trị sự Phật giáo Trung phần và Giáo hội Tăng già tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1963, Ngài được bầu làm Hội trưởng Tỉnh hội Phật học Thừa Thiên.
Cũng trong năm 1963 này, khi chế độ Ngô Đình Diệm triệt hạ cờ Phật giáo và vụ thảm sát ở Đài phát thanh Huế xảy ra, Ngài đại diện cho Phật giáo Thừa Thiên, là một trong năm tập đoàn Phật giáo miền Trung đóng tại chùa Từ Đàm – Huế, ký vào 5 điều Kiến nghị, phản đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Đêm 20.8.1963, Ngài bị bắt giam tại Ty Công an Thừa Thiên, cho đến khi chính quyền Diệm bị lật đổ, Ngài mới được trả tự do ngày 9 tháng 11 năm 1963.
Năm 1964-1974, Hòa thượng được mời làm Phó giám viện Phật học viện Báo Quốc, Phó đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Tỉnh Thừa Thiên, Phó Đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh; cùng quý Hòa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Hiển và Mật Nguyện... tham gia điều hành và giảng dạy lớp Cao đẳng Phật học chuyên khoa Liễu Quán tại chùa Linh Quang – Huế. Đây là lớp đào tạo Giảng sư Phật học của Phật giáo miền Vạn Hạnh. Đoàng thời Hòa thượng còn được mời giảng dạy cho các Tòng lâm ở nhiều nơi khác như Đà Nẵng, Nha Trang, Tây Nguyên và Sài Gòn... Chính thời gian này, dù bộn bề công việc, nhưng Ngài đều hồn thành tốt các Phật sự được Giáo hội giao phó.
Năm 1965, Hòa thượng được mời làm Tuyên luật sư, khai đạo giới tử cho giới đàn Từ Hiếu – Huế. Năm 1968, Ngài khai đạo giới tử cho Giới đàn Phật học viện Hải Đức – Nha Trang. Năm 1970, Ngài lại được mời làm Tuyên luật sư, khai đạo giới tử cho Giới đàn Vĩnh Gia – Đà Nẵng.
Năm 1973, Hòa thượng được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức – Nha Trang.
Năm 1973-1974, Đại hội Phật giáo Thống Nhất kỳ 4 họp tại chùa Ấn Quang, đã cử Ngài giữ chức Tổng Thư ký Viện Hóa đạo GHPGVNTN.
Năm 1979, Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Ngài được môn phái cử giữ chức Trú trì Tổ đình Thuyền Tôn – Huế.
Năm 1980, Ngài làm Giáo thọ cho Giới đàn Thiện Hòa tại chùa Ấn Quang – Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1981, Ngài được cử làm Trưởng phái đoàn, đại diện cho GHPGVNTN, dự Đại hội Thống nhất Phật giáo cả nước tại chùa Quán Sứ – Hà Nội. Trong Đại hội này, Ngài được cử giữ chức vụ Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương GHPGVN.
Năm 1981-1984, Ngài được mời giảng dạy tại Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đặt tại chùa Quán Sứ – Hà Nội.
Năm 1982-1988, Ngài được Giáo hội tỉnh Phú Khánh cung thỉnh làm Trưởng ban Trị sự tỉnh Phú Khánh liên tiếp hai nhiệm kỳ.
Năm 1984-1988, Giáo hội cung cử Ngài giữ chức Phó Hiệu trưởng và Giáo thọ cho Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đặt tại Thiền viện Vạn Hạnh – Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 1984, Ngài được cung cử vào chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 1987, Hòa thượng khai đạo giới tử cho Giới đàn Báo Quốc - Huế.
Năm 1988, khi Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam được thành lập, Hòa thượng được suy cử làm Phó Viện trưởng.
Từ tháng 4 năm 1987, Ngài được bầu vào Đại biểu Quốc Hội liên tiếp 3 khóa: Khóa 8, 9 và khóa 10.
Năm 1991, Giáo hội cung cử Ngài làm Phó chủ tịch Hội đoàng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam, đặc trách Hán tạng.
Năm 1993, Ngài được cung thỉnh làm Tuyên Luật sư, Yết-ma cho giới đàn Thiện Hòa tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 1994, Hòa thượng lại được thỉnh làm Yết-ma tại Giới đàn Báo Quốc – Huế.
Năm 1994-2001, Giáo hội cung cử Ngài làm Hiệu trưởng Trường Cơ bản Phật học (nay là Trường Trung cấp Phật học) Thừa Thiên Huế.
Năm 1997, Ngài được Giáo hội cung cử làm Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế cho đến ngày viên tịch.
Năm 1999, Hòa thượng được Ban trị sự Tỉnh Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân – Huế.
Năm 2000, Ngài đứng ra Đại trùng tu Tổ đình Thuyền Tôn – Huế và tôn tạo ngoại thành tháp Tổ sư Liễu Quán đã hoàn thành một cách trang nghiêm viên mãn.
Năm 2001, Ngài tham dự Lễ Tốt nghiệp Trung cấp Phật học và chính thức trao quyền Hiệu trưởng lại cho Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Trung tuần tháng 9 năm 2001, Ngài chủ trì Lễ tốt nghiệp và Cấp phát văn bằng Cử nhân Phật học cho Tăng Ni sinh Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, khóa I (1997-2001). Sau đó Ngài đã chỉ đạo cho Hội đồng Điều hành Học viện chiêu sinh khóa II (2001-2005); kết quả là gần 200 Tăng Ni sinh trúng tuyển. Trước khi đi xa, Ngài đã ra quyết định đề suất bổ sung nhân sự vào Hội đồng Điều hành và căn dặn quý vị trong Hội đồng Điều hành chuẩn bị khai giảng khóa II cho Tăng Ni sinh vào học. Lớp học được khai giảng hai hôm thì Ngài viên tịch. Cũng trong năm này, Ngài đã chứng minh Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Gia đình Phật tử Việt Nam, tổ chức tại Tổ đình Từ Đàm – Huế.
Suốt cả cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến khi viên tịch, Hòa thượng là một tấm gương sáng ngời về phạm hạnh và hoằng hóa cho Tăng, Ni, Phật tử noi theo.
Trong cuộc đời của Hòa thượng, điều tối quan trọng đối với Ngài là dành nhiều thì giờ cho việc phiên dịch, biên soạn và in ấn Kinh điển để giúp Tăng Ni, Phật tử có thêm tài liệu nghiên cứu, tu tập. Những công trình dịch thuật và biên soạn gồm có: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (1940), dịch tiếp phần sau khi Cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám ra Bắc; Phát Bồ-đề tâm văn (1952); Kinh Kiến chánh (1953); Kinh 42 chương (1958); Kinh Trường A-hàm (lược dịch- 1959); Kinh Pháp cú (1962); Tân Duy thức luận (1962); Đại cương Luận Câu-xá (1978); Luận Thành duy thức(1995); Luận Đại trí độ (5 tập, 1997-2001); Trung luận (2001); Nghi thức tụng niệm (đoàng soạn, 1958); Nghi thức thọ Bồ-tát giới tại gia(1958); Luận Câu-xá (1987); Vô ngã là Niết-bàn (1990); Tỏa ánh từ quang (1992); Lối vào Nhân minh học (1995);Cương yếu Giới luật (1996); Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng soạn, 1997); Ngũ uẩn vô ngã (1997); Kinh Pháp hoa giữa các kinh điển Đại thừa (1997); Trí Đức văn lục (9 tập, 1994-2001); và nhiều bài biên khảo đăng tải ở các Tạp chí từ 1940-2001, như: Viên âm (1940); Phật giáo Việt Nam (1960); Liên hoa (1961); Giác ngộ (1982); Tập văn - Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN (1985-2001). Ngồi ra, Ngài còn hiệu đính cho công trình dịch thuật Đại tạng kinh Việt Nam của Giáo hội, phần Hán tạng như: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm... Các bộ trên đã được in thành sách và xuất bản.
Năm 1981, Hòa thượng tham gia phái đoàn Phật giáo Việt Nam dự hội nghị Tôn giáo vì Hòa bình chống chiến tranh hạt nhân tại Moscow.
Tháng 9 năm 1985, Ngài làm Trưởng đoàn đại biểu GHPGVN thăm hai nước Liên Xô và Mông Cổ. Năm 1989, Ngài làm Đại diện GHPGVN tham dự Hội nghị Hòa Bình Châu Á, tổ chức tại Mông Cổ.
Năm 1994, Ngài làm Trưởng phái đoàn Chiêm bái Phật tích tại Ấn độ. Năm 1995, Hòa thượng là thành viên của phái đoàn Quốc hội Việt Nam do chủ tịch Nông Đức Mạnh dẫn đầu đi thăm một số nước Đông Âu và Nghị viện Châu Âu.
Năm 1998, Hòa thượng là Thành viên của phái đoàn Phật giáo Việt Nam sang thăm và dự Lễ Khánh thành tháp Hòa Bình tại Đài Loan. Năm 1999, Ngài làm Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam sang thăm hữu nghị Phật giáo Trung Quốc.
Hòa thượng đã truyền thọ Ngũ giới, Thập thiện và Bồ-tát giới tại gia cho hàng ngàn Phật tử khắp ba miền đất nước. Ngài đã độ rất nhiều đệ tử xuất gia. Nhiều vị đã và đang phục vụ cho Giáo hội ở cấp Trung ương cũng như các tỉnh thành khắp cả nước. Nổi bật nhất là ở các ngành Giáo dục, Văn hóa, Từ thiện xã hội và Y tế.
Hòa thượng đã cùng Hội đoàng Điều hành Học viện chỉ đạo tiến hành xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế (nguyên là chùa Hồng Đức do Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không dâng cúng cho Giáo Hội để làm nơi đào tạo Tăng tài). Cơ sở vật chất của Học viện khang trang như hiện nay, một phần là do uy tín và công sức lớn lao của Ngài.
Với những công đức mà Hòa thượng đã đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, vào năm 2000, Chính phủ Việt Nam trao tặng Hòa thượng Huân chương Độc lập hạng nhì; vào năm 2001, GHPGVN đã tuyên dương Công đức Hòa thượng .
Tháng 4 năm Canh Thìn (2001), Ngài phát bệnh. Môn đồ và đệ tử đã thỉnh Ngài vào chữa trị ở bệnh viện Chợ Rẫy – Thành phố Hồ Chí Minh gần 9 tháng. Sau đó, Ngài được thỉnh ra Huế để chữa trị tại bệnh viện Trung ương.
Tháng 9 năm 2001, bệnh cũ tái phát nặng. Mặc dù đã được Ban Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế cùng các Giáo sư, Bác sĩ, Y sĩ và môn đồ tận tình chăm sóc, nhưng báo thân đã mãn, Ngài đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 16 giờ 30 ngày 03 tháng 10 năm 2001 (nhằm ngày 17 tháng 8 năm Tân Tỵ) tại Tổ đình Từ Đàm - Huế. Ngài trụ thế 80 tuổi đời, 52 Hạ lạp.
Một số hình ảnh ghi nhận được:
Chư Tôn thiền đức thành tâm dâng hương tưởng niệm
HT. Thích Huệ Ấn niệm hương tưởng niệm
HT. Thích Quang Nhuận niệm hương bạch Phật, cử hành lễ Cúng Ngọ