Lịch sử hình thành chùa
Thế kỷ 12, thiền sư Nguyễn Minh Không đã tu luyện thành chính quả và xây dựng chùa Thần Quang tự (Cổ Lễ ). Sư Minh Không đã chữa bệnh cho hàng ngàn người dân. Bởi vậy, chùa Cổ Lễ vừa thờ Phật lại vừa thờ ngài (tức là đức thánh Nguyễn Minh Không).
Chùa đầu tiên bằng gỗ theo lối kiến trúc cổ. Ngôi chùa hiện nay là do Hòa thượng Phạm Quang Tuyên cho thiết kế và xây dựng lại chùa theo kiến trúc “Nhất Thốc Lâu Đài” vào năm 1920 bằng những vật liệu truyền thống gồm gạch và vữa làm từ vôi, mật mía, giấy bản. Chùa là một quần thể kiến trúc có bố cục tiêu biểu cho chùa miền Bắc từ Tam quan, Tháp, Chùa chính, Hội quán, nhà Tổ, đền thờ. Hội chùa từ 13 đến 16 tháng 9 Âm lịch hàng năm, có nhiều nghi thức văn hóa cổ truyền như lễ rước Phật, đấu vật, đánh cờ người, bơi chải...
Kiến trúc chùa
– Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa:
Chùa Cổ Lễ là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố kiến trúc Gothic của châu Âu.
Trước chùa là ngôi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 32m, có 8 mặt, dựng năm 1927. tháp được đặt trên lưng một con rùa lớn, đầu quay vào phía chùa. Con rùa được nằm giữa hồ nước hình vuông, bốn góc là bốn hòn núi giả khá lớn, cổ đắp bốn con voi to bằng voi Trong lòng tháp có cầu thang gồm 98 bậc xoắn ốc đến đỉnh. Tương truyền rằng tín đồ Phật tử, khách hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn..
Tiếp theo ngôi tháp là một chiếc cầu cong ba nhịp bắc qua hồ Chu Tích gọi là cầu Cuốn. Mặt cầu lát gạch.
Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được xây vào năm 1936 và trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan Thế Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình có 2 lư đồng lớn.
Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937, thờ Trần Hưng Đạo và hai tiến sĩ họ Đào người làng cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ Đào Toàn Mễ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang phủ, được xây vào năm 1937, là nơi Tam Tòa Thánh Mẫu.
Sau lưng chùa Trình là một hồ lớn. Giữa hồ có một quả chuông nặng 9000 kg gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông cao 4,2m, đường kính 2,2m, thành dày 8cm. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân cổ họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự chữ Nho. Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của chiếc chuông Đại hồng chung này. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam. Nhân dân quanh vùng vì yêu mến chùa mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông, nhiều người đã tháo nhẫn, vòng, vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông vừa đúc xong thì kháng chiến bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống hồ. Năm 1954, chuông mới được trục vớt và được đặt trên bệ đá cho du khách tham quan từ đó đến nay.
Phật điện Thần Quang tự trong chùa cổ Lễ:
Có hai chiếc cầu giả như động núi, gọi là cầu Núi, bắc qua hồ tới kiến trúc chính của Cổ Lễ, đó là chùa Thần Quang. Chính điện được thiết kế theo kiến trúc hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Thần Quang Tự được xây dựng từ năm 1914 trên nền cổ từ thế kỷ XII. Năm 1995, chùa được trùng tu lớn. Trong chùa có tượng Phật sơn son vàng bằng gỗ bạch đàn cao 4m đặt ở trên tầng cao phải đi theo những cầu thang nhiều ờ hai bên mới lên đến chỗ đặt các tượng Phật. Sau lưng tượng Phật là bàn thờ thiền sư Nguyễn Minh Không.
Từ điện Phật, có các hành lang quanh ra phía sau nối với nhà khách và nhà tổ. Vách hành gắn đầy những tấm bia hậu. Ở nhà tổ có tượng Hòa thượng Phạm Quang Tuyên.
Sau nhà thờ tổ là một gác chuông lớn có kiến trúc truyền thống gồm 3 tầng 4 mặt, gọi là Chung Bảo Các. Gác chuông này cao 13,4m, được xây dựng vào năm 1997.
Tầng 2 của chuông này có treo một quả chuông đồng to, cao 4,2m, rộng 2,03m, nặng 9.000 kg, được đúc vào năm 2003. Tầng 3 có treo một quả chuông đồng nữa đúc từ thời Lê Thịnh, nặng 300 kg.
Sau gác chuông là khu lăng mộ tổ của chùa.
Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến phương Tây, chùa cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng đồng bằng sông Hồng.