In trang này
Tổng Quan về Tuệ Học
Cập nhật ngày: 11/18/2019 10:13:13 AM
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn. Do đó, trí tuệ chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong đạo Phật. Vì đạo Phật là đạo trí tuệ . Người ta thường nói rằng trong trí tuệ “Phật giáo cung cấp giải pháp riêng của mình về những bí ẩ n sâu xa nhấ t của vũ trụ và muốn theo đó để tìm hiểu quan điểm mới của nó”. Trí tuệ được công nhận là một trong các khoa và là một trong những năng lực để tu tập đạt được mục tiêu giải thoát của Phật giáo. Đây cũng là bước thứ ba và là bước tiên quyết nhất trong con đường tam vô lậu học dẫn tới mục tiêu giải thoát. Một người muốn cắt đứt gốc rễ của sanh tử luân hồi thì điều tiên quyết là phải có trí tuệ. Gốc rễ của sanh tử luân hồi là vô minh và tham ái, trong khi trí tuệ có khả năng cắt đứt sự ràng buộc của tham ái và đâm thủng màn vô minh che lấp chơn tánh con người. Do vậy, tất cả những lời dạy của Đức Phật là để dành cho những người thấy và biết (có trí tuệ) chứ không phải cho những người không thấy và không biết. Trí tuệ được xem là nhân tố cần phải được hoàn thiện. Bởi tất cả chúng sinh muốn trở thành những vị Phật giác ngộ và được tất cả các truyền thống Phật giáo thừa nhận thì phải thành tựu Trí tuệ Ba-la-mật để đạt được Phật quả. Một bộ phận lớn của văn học được gọi là Văn học Bát-nhã được cấu thành trong tiếng Phạn vào những thế kỷ sau Công nguyên nhằm mục đích mô tả nhận thức Phật giáo về bản chất thật tại của Bát nhã Bala-mật. Đức Phật tuyên bố rằng giáo lý của Ngài không dựa trên truyền thống thánh thiện và có thẩm quyền mặc khải Vệ-đà, nhưng nó chứa đựng cái mà Ngài tự biết và nhìn thấy. Phương thức cụ thể của sự hiểu biết và nhìn nhận ở đây được mô tả như là tuệ. Chúng đệ tử của Phật cũng không được chấp nhận những lời giảng dạy bằng đức tin mà bằng trí tuệ soi xét. Thành ra, Tuệ học được coi là cần thiết để thực hiện và thành tựu chân lý giải thoát, giác ngộ trong Phật giáo. Trí tuệ là bước cuối cùng và cao nhất trong Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ ), dẫ n đế n mụ c tiêu giả i thoát. Sở dĩ Tuệ là bướ c cuối cù ng cao nhấ t trong Tam vô lậu học là vì khi một hành giả thực hà nh thiề n định, đạt đến trạng thái nhất tâm sâu lắng thì luôn có sự xuất hiện của hỷ , lạc và tâm xả . Nhữ g cảm giác nà y có thể thuyết phục các thiền giả không thận trọng mà vị ấy đã an trú trong sự hỷ lạc từ nội tâm và cho đó là cứu cánh cuối cùng. Tuy là đạt đến những trạng thái cao như vậy, thực ra đó mới chỉ là sự cảm nhận từ ý thức, chứ không phải là minh sát tuệ để có thể cắt đứt sự trói buộc của vòng sanh tử luân hồi. Các trạng thái cao của thiền định tạo nên nghiệp thiện, có thể dẫn đến sự tái sinh trong sắc giới hoặc vô sắc giới tùy thuộc vào các cấp độ thiền định mà hành giả đạt được. Nếu không có sự phân biệt sâu sắc của trí tuệ, nghiệp thiện này cuối cùng sẽ hết, do đó chúng sanh sẽ tái sinh trở lại trong tam đồ lục đạo. Đối với con đường thánh đạo giải thoát hoàn toàn đạt đến sự bất sanh bất diệt thì chỉ có trí tuệ mới có khả năng thâm nhập và chứng đạt đến. Do đó, Đức Phật thường ca ngợi trí tuệ như là ánh hào quang, ánh sáng, ánh lửa, ánh chiếu và ánh đèn để soi rọi bóng đêm đen u tối. Trong Kinh tạng Nikāya, Trí tuệ đượ c đề cậ p xuyên suốt và mô tả nó như nú t thá o gỡ cuố i cù ng để đạt đế n niế t-bàn giả i thoát tối hậu. Trong đó Đức Phật thí dụ trí tuệ với nhiều hình ảnh sinh động tương ứng với những tính năng của nó. Chẳng hạn như trí tuệ là ánh sáng, trí tuệ như con dao. Đó là ánh sáng tối cao vì nó chiếu sáng bản chất thật của sự vật và xua tan bóng tối của sự thiếu hiểu biết. Nó là một con dao sắc bén vì n ó cắt đứt sự chằng chịt của các phiền não và do đó mở ra con đường để giải thoát. Khái niệm về trí tuệ được mô tả chi tiết và rõ ràng trong Kinh tạng Nikāya và có thể được tóm gọn trong các cụm từ: sự thấy biết rõ ràng, sáng suốt và tỉnh táo. Và nó được giải thích từ hai khía cạnh trái ngược nhau: Thứ nhất, điều kiện duyên sinh, trí tuệ trong Nikāyas được nhấn mạnh một cách dứt khoát, đó là phát sinh từ điều kiện cơ bản về các nguyên nhân và các điều kiện. Thứ hai, trí tuệ không phải là trực giác, mà là một sự hiểu biết cẩn thận và phân biệt rõ ràng qua các giai đoạn nhất định bao gồm các hoạt động khái niệm chính xác. Trí tuệ là hướng tới các lãnh vực hiểu biết cụ thể. Những lĩnh vực này được biết đến trong các luận thư của văn học Pāli là “đất của tuệ” (tuệ địa, paññābhumi), phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và nắm vững thông qua sự hiểu biết khái niệm trước khi nhìn nhận sâu sắc các vấn đề. Niệm vô niệm tức không dựa trên khái niệm mơ hồ mà đi sâu vào bản chất thật của các pháp để nhìn nhận chúng. Để nắm vững đòi hỏi này, chúng ta phải phân tích, phân biệt và quan sát. Hành giả phải có khả năng tư duy và chiêm nghiệm các sự kiện cơ bản trong đời sống nhằm tích lũy và đưa ra những nhận định chính xác về các sự vật hiện tượng. Do đó, sự nhìn nhận chính xác phải thông qua quá trình quan sát, trải nghiệm chứ không phải mù mờ phỏng đoán. Để trí tuệ tăng trưởng chúng ta phải học và tìm hiểu về Pháp. Quy trì nh nà y tuầ n tự theo cá c bướ c đó là “văn tuệ , tư tuệ và tu tuệ ”. Văn tuệ là nghe từ ngườ i khá c, hay từ sá ch vở ; tư tuệ là tư duy suy nghĩ về nhữ ng điề u đã họ c; và tu tuệ là á p dụ ng thực tậ p. Trí tuệ đích thực trong Phật giáo có khả năng nhìn vào bản chất thật của các hiện tượng. Trí tuệ sẽ nhìn nhận thấy chúng qua ba đặc điểm của vô thường, khổ, và vô ngã. Tuệ (tiếng Pāli là paññā, tiếng Skt. là prajnā) có nghĩa là sự nhận thức, phân biệt, nhưng sự nhận thức phân biệt này khác với sự nhận thức phân biệt thông thường, bởi nó bắt đầu từ gốc động từ trong tiếng Skt. jñā là nhận biết, thấy rõ, thấu hiểu tường tận. Nó được dịch ra là “trí tuệ ”, “giá c ngộ”, “minh sát tuệ”, “hiểu biết rõ ràng” hoặc “kiến thức trực quan”. Trong tiếng Pāli, chế độ nhận thức cụ thể liên quan được phân biệt bởi việc sử dụng các tiền tố pa (Skt. pra), thể hiện một ý nghĩa nhận thức khác biệt rõ ràng từ đó chúng ta có thể so sánh đối chiếu với các loại nhận thức khác như thức tri (vinñāṇa), tưở ng tri (saññā), thắ ng tri (pariññā) và liễ u tri (abhiññā) nơi các tiền tố tương ứng là vi-sam-pari- và abhi. Phật giáo nguyên thủ y sử dụng cả hai hình thức nội dung Trí tuệ (paññā) và Tuệ tri (pajanati) xuất hiện thường xuyên trong một loạt các ngữ cảnh. Việc sử dụng nội dung như vậy ngụ ý rằng trí tuệ nhìn nhận sự vật là vô thường, vô ngã, không như nhận thức thông thường cho rằng các pháp là thực hữu. Một người được gọi là người trí tức người ấy có cái nhìn đặc biệt, cái nhìn thấu suốt và hiểu biết rõ ràng bằng tuệ giác. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), luậ n sư Phật học nổ i tiế ng, khi giải thích thuật ngữ này đã nói rằng nhận thức được gọi là Trí tuệ trong ý nghĩa nó là hoạt động của nhậ n thứ c theo con đườ ng Trí tuệ . Giả i thoá t đạ o luậ n (Vimuttimagga) nó i rằ ng “kiến thức đặc biệt” kết hợp với ý thức đạo đức (kusalacitta) được gọi là Trí tuệ . Trí tuệ là sự hiểu biết. Đó là biết (jānana) trong một chế độ đặc biệt khá c vớ i tưở ng tri (sañjānana) và thứ c tri (vijānana). Theo từ điển Pali- English Dictionary của T. W. Rhys Davids và William Stede, trí tuệ là sự thấu hiểu, bao gồm tất cả những gì cao hơn của sự nhận thức. Trí tuệ nhận ra chân lý, lý do, trí tuệ, hiểu biết, kiến thức, minh sát. Trong khi thuật ngữ Bát-nhã theo định nghĩa của SanskritEnglish Dictionary cũng được dịch là trí tuệ (wisdom), sự hiểu biết (knowledge), phân biệt hay trí xét đoán (discrimination), sự quán sát (judgment). Jñā có thể được dịch là “thức” (consciousness), “kiến thức”, hay “sự hiểu biết” (understanding), trong khi pra là một thiết bị khuếch đại có thể được dịch là “cao hơn”, “lớn hơn”, hoặc “tối cao”, hay “được sinh ra hoặc mọc lên”, tức nói đến cái gì đó tự sinh ra và nhận biết ở một mức độ cao hơn. Trong thuật ngữ Pāli từ paññā có nguồn gốc từ ñā (Skt: jñā), có nghĩa là “biết”, nhờ tiền tố pa (Skt: pra), mà chỉ đơn thuần là cung cấp cho các gốc có nghĩa là một sắc thái năng động hơn. Vì vậy, paññā/prajñā có nghĩa là biết hoặc hiểu biết, không phải là chiếm hữu, như là một hành động: hành động của biết, hành động của sự hiểu biết, hành động sáng suốt. Trong Pāli, các động từ prajānāti, (tuệ tri), truyền đạt ý nghĩa này có hiệu quả hơn danh từ trí tuệ tương ứng. Tuy nhiên, ý nghĩa của trí tuệ là một loại hiểu biết cao hơn những gì xảy ra khi người ta chỉ hiểu biết đơn thuần. Ví dụ, một đoạn văn khó hiểu trong sách giáo khoa kinh tế hoặc những hàm ý của một lập luận pháp lý. Trí tuệ biểu hiện sự hiểu biết nảy sinh qua việc đào luyện tâm linh, làm sáng tỏ bản chất thật sự của sự vật, và đạt đến cực điểm trong sự tịnh hóa và giải phóng tâm trí. Vì lý do này, bất chấp những hạn chế của nó, thuật ngữ “trí tuệ” quen thuộc vẫn được sử dụng. Theo Sangharakshita, Trí tuệ Bát-nhã có ý nghĩa chính xác và khá đặc biệt. Nó xuất phát từ một ngữ căn jñā trong tiếng Phạn có nghĩa là “biết” mà còn được tăng cường với một tiền tố pra nhấn mạnh thêm ý nghĩa. Bát-nhã không chỉ là kiến thức; nó là kiến thức tối cao hoặc thậm chí kiến thức bậc nhất, kiến thức tuyệt hảo, kiến thức trọng tâm. Nhưng kiến thức về những gì? Các đối tượng của tri thức tối cao này là gì? Câu trả lời cho điều này được thấy xuyên suốt tất cả các nền văn học Phật giáo, trong tất cả các truyền thống Phật giáo, là khá rõ ràng. Bát-nhã có nghĩa là kiến thức về thực tại; nó có nghĩa là kiến thức của sự vật như chúng thật sự là, ở độ sâu tối hậu, chiều kích siêu phàm cuối cùng của chúng. Trí tuệ Bát-nhã còn được giải thí ch là cái nhìn sâu sắc về bản chất thật của sự vật, đó là bản chất của vô thường, đau khổ, vô ngã, và không tánh. Theo đó , Tuệ vô lậu học là: “Hiểu một cách đúng đắn về khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế và đạo thánh đế, như vậy gọi là tuệ học vô lậu”. Kinh Tương ưng bộ tập V cũng định nghĩa tuệ học vô lậu như là sự quán triệt và thấy biết “thế nào là khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ và các phương pháp để diệt tận khổ”. Kinh Phật tự thuyết lại định nghĩa tuệ học chính là “… sự hiểu rõ về giáo lý Nhân duyên hay Duyên khởi”. Sự nhận thức được nguyên lý “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt. Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt. Do cái này sinh nên cái kia sinh. Do cái này diệt nên cái kia diệt”. Định nghĩ a này cho thấy trí tuệ không phải là đối tượ ng quá siêu việt hay thần bí , mà nó bắt nguồn từ nhữ ng pháp căn bản, chơn chánh mà hiện khởi. Vì vậ y, Phật giáo Nguyên thủ y thườ ng tránh cá ch giải thích mang tí nh chuyên chế về bả n chấ t luậ n đối với khái niệm Trí tuệ , dẫn đến vị trí bản thể học, xa rờ i thự c tế . Do đó một đị nh nghĩ a xác đá ng hơn từ Trung bộ kinh đị nh nghĩ a Trí tuệ là tuệ tri: “Như thế nào được gọi là Trí tuệ? Vì có tuệ tri, vì có tuệ tri, nên được gọi là Trí tuệ. Có Tuệ tri gì? Có Tuệ tri: đây là khổ, có Tuệ tri: đây là khổ tập, có Tuệ tri: đây là khổ diệt, có Tuệ tri: đây là con đường đi đến khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri nên được gọi là Trí tuệ” (Trung bộ, I-43). Như vậy Trí tuệ là biết với tuệ tri, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm và tuệ tri sự xuất ly của các pháp, và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dầu tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri. Một định nghĩa nữa của Trí tuệ cũng được đề cập. “Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau”. Danh từ Pāli chuyên môn là Ariyāya nibbedhikāya sammà-dukkha-kkhayagāminiyā (D. III, 237). Ở đây chữ Nibbedhikāya có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu vào con đường có khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi đau khổ. Cách dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hay tham, sân, si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt còn có khả năng đâm thủng vô minh để cuối cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn cái công năng diệu dụng của trí tuệ: “Trí tuệ có nghĩa là thắng tri (abhinnāttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (pahānattha)”. Như vậy, trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định, và thiền định đây là bất động thức tư. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận được các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham, sân, si, chấm dứt khổ đau. Truyền thống Đại thừa Phật giáo phát triển khái niệm Bát-nhã với các hình thức đa dạng của hình ảnh tôn giáo. Bát-nhã Ba-la-mật đã được tuyên xưng là mẹ của chư Phật ba đời và được nhân cách hóa thành nữ thần Bát-nhã. Một giải thích rộng lớn hơn nhiều và tưởng tượng sâu sắc hơn là đưa ra các khái niệm về Bát-nhã trong cách hiểu về Phật phổ quát. Học thuyết tam thân Phật (pháp thân, báo thân và ứng hóa thân) và giải trình triết học về học thuyết tánh không Bátnhã của Phật giáo Đại thừa hoàn thiện về sau như là cách mô tả về trí tuệ một cách hoàn chỉnh nhất. Các vị Bồ-tát Văn-thù và Quán Thế Âm đã được xem như là biểu tượng của Trí tuệ Bát-nhã. Theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa, các pháp là không tánh, nghĩa là tất cả các pháp đều không có một thực thể cố định, bất biến hay tồn tại độc lập riêng biệt. Khi chúng ta nhìn thế giới sự vật hoặc con người với cái nhìn trí tuệ thì thấy tất cả chúng đều là ảo tưởng, không thật. Chúng chỉ là biến tướng biểu hiện ra, không có thực thể cố định độc lập. Duy thức gọi đó là Biến kế sở chấp và Y tha khởi tự tánh. Thật tướng của các pháp là vô tướng, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh và vô thọ giả như kinh Kim cang đã trình bày. Chỉ có trí tuệ Bát-nhã mới nhìn thấy rõ thật tướng của vạn pháp. Đó là duyên sinh tính, duyên khởi tính tương ứng với lời dạy trong Kinh tạng Nikāya rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Như Lai”. Tóm lại, thuật ngữ trí tuệ trong Phật giáo là ngôn ngữ thông thường được sử dụng qua mọi thời đại. Tuy nhiên, ý nghĩa nhận thức của nó đã được sửa đổi và mở rộng trong Phật giáo để phù hợp với các mục tiêu của nó. Trong kinh điển của Phật giáo, nó được sử dụng theo nghĩa hiểu biết toàn diện về bản chất của tất cả các hiện tượng dẫn đến sự chuyển đổi đạo đức lâu dài của cá nhân. Trí tuệ hoàn toàn khác với giác quan trực giác về sự nhận thức độc lập. Đúng hơn, trí tuệ là sự soi rọi vào tận cùng bản chất của sự vật hiện tượng như là chân lý cuối cùng và nguồn gốc của tất cả sự tồn tại. Một số cố gắng sau này trong các truyền thống Phật giáo giải thích về ý nghĩa của trí tuệ như là bản chất thực tại cuối cùng, là siêu tuyệt vượt tầm hý luận, ly tứ cú, tuyệt bách phi… Tuy nhiên, theo Phật giáo Nguyên thủy, trí tuệ chỉ đơn thuần là một cách hiểu biết mọi thứ chứ không phải là một trực giác hợp lý liên quan đến việc nhìn thấy hoặc trải nghiệm cái gì đó độc đáo, siêu hình và siêu nghiệm. Và mục tiêu cuối cùng của giáo dục Phật giáo đó là trí tuệ, mà Đức Phật đã dùng như là phương tiện trực tiếp đưa tới sự giải thoát cứu cánh, như là chìa khóa mở cánh cửa Niết-bàn bất diệt, và cũng như là hướng dẫn chính xác đưa tới sự thành tựu việc thích ứng với những thách thức của đời sống thế tục. Trí tuệ như thế là tối thượng của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo, và tất cả những bước căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo nên ăn khớp với đức tính tối thượng này. Nghĩa là với những bước căn bản này thì giáo dục đạt được sự hoàn thiện, và rằng nó trở nên rực rỡ trong ý nghĩa thật và sâu xa nhất, như được dạy bởi Đức Phật trong đêm Ngài thành đạo, “Trong Ta khởi lên tri kiến, hiểu biết, trí tuệ, liễu ngộ, và ánh sáng”. Tài liệu tham khảo: 1. Encyclopaedia Of Buddhism; quyển 8; Sri Lanka; 1962. 2. Bhikkhu Bodhi; In the Buddha Words, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon; Wisdom Publications; Boston; 2005. 3. T.W. Rhys Davids & William Stede; Pali- English Dictionary; Motilal Banarsidass, Delhi, 2003. 4. M. Monier Williams; A Sanskrit-English Dictionary; Motilal Banarsidass, Delhi, 2002. 5. Sangharakshita; Wisdom beyond Words, The Buddhist Vision of Ultimate Reality; Motilal Banarsidass; Delhi; 2006. 6. Kinh Tăng chi bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. 7. Kinh Tương ưng bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. 8. Kinh Trung bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. Thích Trung Định | Văn Hóa Phật Giáo số 333 ngày 15-11-2019 Tổng Quan Tuệ Học
Nguon ThuvienHoaSen.Org
In trang này