Một buổi sáng sớm nọ, Đứс Phật đến dự đại lễ cúng dường tại tư gia của trưởng giả Cấp Cô Độc. Thân hành tới nơi, đức Phật thoáng nghe những lời cʜửı bới ồn ào vọng lên từ đằng sau nhà. Ngài hỏi cư sĩ Cấp Cô Độc rằng:
– Trong nhà cư sĩ, có gì không ổn định, sao ồn ào quá?
Trưởng giả Cấp Cô Độc cảm nhận thấy thẹn thùng, cung kính thưa rằng:
– Bạch Đứс Thế Tôn, đó là sự ngỗ nghịch của Su-cha-ta, cô dâu nhà con. Tuy đơn giản dâu sống trong gia đình, nhưng nó ỷ vào cha mẹ giàu có, gia đình danh giá, nên nó thất lễ, không chịu vâng lời, không biết cung kính với cha mẹ chồng. Bạch Đứс Thế Tôn, ngay cả chồng nó, nó cũng xử sự thô lỗ, vô lễ. Ngoài ra, nó cũng không có đạo tâm, không biết kính lễ các bậc Đạo sư. Hôm nay, dù biết Thế Tôn thân lâm, nó cũng không nể, vẫn ồn ào lớn tiếng, từ nãy đến giờ. Kính xin Thế Tôn từ chiều chuộng hóa cho cháu tốt hơn.
Bấy giờ, Đứс Phật cho gọi nàng dâu và dạy như sau:
– Này Su-cha-ta, có 7 kiểu vợ ở trên đời này. Con hãy chín chắn suy nghĩ, so sánh, trả lời cho ta, con thuộc kiểu nào?
Một là làm vợ như kẻ Sát nhân.
Hai là làm vợ như kẻ ăn trộm.
Ba là làm vợ như một chủ nhân.
Bốn là làm vợ như người mẹ hiền.
Năm là làm vợ như cô em gái.
Sáu là làm vợ như bạn đồng hành.
Bảy là làm vợ như một người hầu.
Trước từ bi và uy nghi của Phật, nàng Su-cha-ta bắt đầu khởi động lễ phép, tỏ ra vâng phục, thưa với Phật rằng:
– Bạch Đứс Thế Tôn, lời dạy của Ngài thật quá ngắn gọn, con không hiểu hết. Xin Ngài từ bi chỉ dạy cặn kẽ.
Lúc ấy, Đứс Phật niềm nở giải thích những điều như sau:
– Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào có tâm hiểm độc, hai lòng, không sống chung thủy trong hôn nhân, bỏ rơi chồng mình, quan hệ mờ ám với người đàn ông khác chỉ vì choáng ngợp trước sự giàu có hay vẻ ngoại hình, luôn khinh bỉ chồng, tính tình hiếu chiến… ta gọi đây là loại “vợ Sát nhân”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào không cùng chung sức chăm sóc kinh tế cho gia đình mình, lại còn tiêu xài vô cùng hoang phí tài sản hợp pháp của chồng tạo ra… ta gọi người đó là “vợ trộm cướp”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào ỷ lại, lười biếng, không lời từ ái, không chút nhu hòa, phát ngôn thô tháo, thích lấn lướt chồng… ta gọi người đó là “vợ chủ nhân”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào có lòng thương yêu, lo lắng, chở che, giúp chồng hết mực; có cách giữ gìn, làm giàu tài sản của chồng tạo ra; như một người mẹ lo lắng chu tất cho con cái mình… ta gọi người đó là “vợ như mẹ”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào thùy mị, đoan trang, khiêm tốn, nhún nhường, hiểu và thuận phục đối với chồng mình như với anh ruột trong một gia đình… ta gọi người ấy là “vợ như em”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào hiểu biết, thông cảm, niềm nở, vui vẻ, hòa thuận với chồng như thể hội ngộ một người bạn bè từ lâu mới gặp… ta gọi người đó là “vợ như bạn”.
Này các đệ tử, bất cứ người vợ nào tính tình mềm mỏng, không chút nóng nảy, không giận, hờn dỗi; dù khi bị chồng đối xử không đẹp vẫn khéo nhường nhịn, không hề lỗ mãng, lớn tiếng cʜửı lại; biết tùy thuận chồng, khéo léo khuyên răn, thuyết phục chồng mình… ta gọi đó là “vợ như người hầu”.
Này Su-cha-ta:
Trong 7 kiểu vợ mà ta vừa nói, 3 hạng đầu là vợ như Sát nhân, vợ như ăn trộm, vợ như chủ nhân đều là không tốt, con không nên giống, nỗ lực vượt qua. Những hạng vợ này do không đức hạnh, άс khẩu, vô lễ, sau khi qua đờı sinh vào cõi xấu.
4 kiểu vợ sau: vợ như người mẹ, vợ như em gái, vợ như bạn hiền, vợ như người hầu là đáng noi theo. Những hạng vợ này, lúc còn sống thì tạo ra hạnh phúc cho gia đình mình và cho con cái; khi qua đờı thì sinh vào cõi lành, do phước đã tạo.
Nghe Phật niềm nở giải thích, dạy dỗ, cô Su-cha-ta, dâu của gia đình ông Cấp Cô Độc, tỏ ra ăn năn, thành tâm sám hối. Cô phát nguyện rằng cô sẽ chung sống, phụng sự chồng con như một người hầu dễ thương. Từ đó về sau, toàn thể gia đình của Cấp Cô Độc trở nên đầm ấm, an nhàn, hạnh phúc.
Lời bàn:
Trong số 7 kiểu vợ mà Đứс Phật nêu lên, người vợ cuối cùng có cái thương hiệu khiêm tốn nhất – “vợ như người hầu”, nhưng tôi cảm nhận thấy đây lại là người có đức hạnh cao quý nhất. Người vợ ấy vừa có đức Nhẫn (khi bị đối xử không tốt vẫn nhường nhịn, không oán giận); lại vừa có tâm Thiện (biết tuỳ thuận chồng mà khéo léo khuyên răn). Người vợ như thế này cái tâm đã ở trong Đạo, mà hoàn cảnh gia đình càng éo le thì lại càng như một trường tu luyện tác thành cho cô vậy.
Tuy rằng Đứс Phật giảng Pháр về người phụ nữ, nhưng có lẽ người nam giới cũng có thể dùng nó để tự xem xét bản thân, từ đó đạt được tiến bộ trên con đường tu tâm dưỡng tính. Nếu một người chồng có thể đối xử với vợ của mình bằng tình yêu thương, chở che như một người cha; bênh vực và chở che như một người anh; thông cảm và vui vẻ như một người bạn; hay thậm chí có thể nhường nhịn và bao dung như một “người hầu”; thì có lẽ nào vợ của anh ấy không được cảm hoá, trở thành một người vợ hiền hay sao?