Tôi
dĩ nhiên cũng có một thời
tuổi trẻ, giai đoạn đòi hỏi gì cũng phải
sòng phẳng,
rõ ràng:
Vui buồn, thương ghét, gần, xa,…và mỗi thứ trong đó xô tôi về từng góc riêng của những
tâm cảnh hỷ nộ, ái ố. Rồi thì tuổi đời
chồng chất,
cộng thêm những
hoàn cảnh sống
đặc biệt,
dần dần tôi
nhận ra những thay đổi rất
tự nhiên trong lòng mình. Chúng như những khúc quanh phải có trên một cuộc đi dài, và đôi khi là những lối thoát
cần thiết cho từng bế tắc. Những lúc đó, từng
ranh giới biện biệt vẫn khiến tôi
cực lòng trước giờ bỗng nhạt nhoà rồi
biến ảo thật
đẹp mắt, đến mức khó ngờ.
Một trong những bước đi
ấn tượng nhất mà tôi còn nhớ được là một ngày bỗng nhiên buột miệng đọc suông bài thơ Xóm Ngự Viên của thi sĩ Nguyễn Bính và rồi
cùng lúc bắt gặp một bài Hài-Cú của Basho. Như cách nói của người Nhật, tôi đã một thoáng Satori (bừng tỉnh). Bài thơ của ông Nguyễn Bính dài lắm, nhưng tôi
đặc biệt nhớ hoài hai câu
cuối cùng:
Hôm nay có một người
du khách
Ở ngự viên, mà nhớ ngự viên !
Thật kỳ lạ, tám thế kỷ trước, nhà thơ Basho của Nhật cũng từng có một cảm niệm
tương tự thế. Như một tao
ngộ từ hai cực
thời gian. Ở đây tôi dùng bản dịch của Robert Hass (trong The Essential Haiku):
Even in Kyoto
Mà nhớ Kyoto !
Thì ra khái niệm
xa gần chỉ là của giả. Trong
tâm tưởng chúng ta, một khuôn mặt bên cạnh hay ngoài ngàn trùng thật ra vẫn luôn
giống hệt nhau về khoảng cách.
Độc giả làm ơn nhắm mắt lại để kiểm nhận câu nói này của tôi xem đúng hay sai. Trong mắt ta, có thể có xa với gần. Nhưng trong
tâm tưởng, gần xa là một. Lúc này đến cả
thời gian cũng không là thật. Đó là
lý do vì sao trong A-Tỳ-Đàm
nguyên thủy thời gian và
không gian chỉ được xem là những khái niệm Thi Thiết
giả lập, không có
thực tướng. Người học Phật hôm nay có thể nhìn thấy
đức Phật với ba mươi hai
hảo tướng, thấy cả những khổ quỷ dạ-xoa kỳ hình
dị tướng một bụng
sân si, mà không cần đến khả năng
thiên nhãn của một người
chứng đắc thiền định. Ở đây tôi
tuyệt không phủ nhận
giá trị của
pháp môn Chỉ Tịnh (samatha), cũng không phải đề nghị
độc giả sống mộng mị
ảo tưởng, một điều
đối lập với
trí tuệ quán chiếu (vipassanà). Tôi chỉ đang lạm bàn về một khía cạnh của A-Tỳ-Đàm.
Đêm qua một người quen email cho tôi bảo rằng họ cứ thấy
bực mình khi
thiên hạ cứ bắt chước
thiền sư kêu gọi sống trong
hiện tại khi mà cuộc sống
trước mắt buồn khủng khiếp. Nhớ lại, đó cũng là một nổi riêng của tôi. Tôi đã quá hãi với những câu nói đã vào khuôn mẫu, như Hãy Vui Với Giây Phút
Hiện Tại hoặc những chữ Thiền, Đạo,
Tỉnh Thức,
Quán Chiếu được
sử dụng tràn lan bừa bãi như một thứ thời thượng. Tôi nghĩ rằng dù từ
lập trường nào,
thiên hạ có lẽ cũng nên bắt đầu
hành trì lời Phật từ những bài vỡ lòng về những
vấn đề căn bản. Chẵng hạn
Hữu Bộ có 75 pháp,
Duy Thức có 100 pháp,
Thượng Toạ Bộ có 84 (Niết-Bàn, 1
Tâm Vương, 52
Tâm Sở, 28
Sắc pháp, 2 Thi Thiết). Trong một bài viết lãng đãng mù sương thế này lại nhắc đến những
quy tắc khô khan kiểu đó hình
như không phải chỗ. Nhưng không hiểu được Kiếm Tông, Khí Tông là gì thì võ học
Hoa Sơn sẽ
kết thúc xót xa trong tay một
quân tử kiếm kiểu Nhạc Bất Quần!
Xin nhắc lại, tôi đang lạm bàn về một chuyện nhỏ trong A-Tỳ-Đàm,
cộng thêm cái email
hiu hắt kia, nên tôi phải nghiêm túc xác định rằng cuộc chơi nào cũng phải có luật. Tôi đang nói đến tính
tương đối của hai thứ Thời Không bằng cách nói lai rai của một người gần bạc tóc vẫn ham chơi. Và giờ thì xin quay lại với mấy câu thơ của hai thi sĩ đã nhắc ở trên với một
khẩu quyết căn bản là muốn
rong chơi trên những cành lá hãy tìm về nguồn gốc trước đã. Nói vậy cũng có nghĩa là muốn thấy cái như thực thì phải hiểu ra cái gì là ảo hoá, và thấy được cái gì là ảo hoá thì mới thấy ra được cái như thực.
Thấy được tính ảo hoá trong những cái mình vẫn cho là thật,
chắc chắn ta được
an lạc hơn nhiều. Vì hiểu chúng chỉ là những thứ
tương đối,
áp lực trong ta không còn là chuyện bắt buộc nữa. Đó chính là
lý do của bài viết này.
Độc giả có thấy khó chịu khi tôi nói rằng theo những gì vừa viết ở trên thì
chưa bao giờ có một cuộc chia tay hay gặp gỡ nào đúng như ta vẫn tưởng. Dẩu có đứng cạnh nhau hay
cách nhau nửa vòng trái đất thì khoảng cách của đôi bên vẫn là
vấn đề tâm lý mà thôi. Anh phải nghĩ đến tôi trước đã. Trong
tâm tưởng của anh không có tôi thì coi như tôi đã là người khuất mặt. Đó là
lý do vì sao có người đứng giữa ngự viên mà than nhớ ngự viên, ngồi giữa lòng phố Kyoto mà bảo rằng nhớ Kyoto. Ngự viên hay Kyoto mà họ tưởng nhớ có thể là một dĩ vãng. Tôi biết có
độc giả muốn xăn tay áo nhảy vào
giải thích với tôi như thế. Nhưng xin thưa, nếu hai nhà thơ kia có nghĩ về cái ngự viên hay Kyoto
trước mặt thì liệu có khoảng cách nào giữa hai cái
xưa nay đó trong lòng họ chứ !
Nó
tồn tại vì ta nghĩ đến nó. Nên nếu bây giờ tôi có ngồi giữa một trời thu mà nghĩ về những chiếc lá vàng năm cũ hay những chiếc lá vàng đang rơi đầy
trước mặt thì trong lòng tôi trước sau chỉ có một khoảng cách.
Vậy thì những khái niệm
cô đơn hay gặp gỡ hình như lại cũng là những thứ
ởm ờ không thật có giữa
nhân gian.
Sáng nay tôi ra thùng thư trước nhà và rồi thấy thêm một mảnh giấy
thông báo tìm người mất tích. Một câu chữ thiệt ngắn bên trên mấy bức ảnh người cứ làm tôi
suy nghĩ: Have You Seen Us (bạn có từng thấy qua
chúng tôi ?). Một câu hỏi có
ý nghĩa sâu thẳm như một
công án, hiểu sao cũng có thể
giác ngộ. Bởi như đã thưa ở trên,
chúng ta chưa từng gặp gỡ hay ly biệt, gần hay xa chỉ là một cách nói, và như vậy trên đời làm gì có sự mất tích của ai đó. Có chăng là
trường hợp chữ Mất Tích được dùng để gọi một người sống
phóng dật không tự
biết mình là ai hoặc để gọi một vị đã Niết-Bàn. Họ đích thực là những người Mất Tích đúng nghĩa nhất. Nhưng nói cho vui vậy thôi,
mai kia tôi có
đãng trí đi lạc và cảnh sát đăng tin tìm người thì quý
độc giả cũng làm ơn
thực tế một chút, nghĩa là có gặp tôi thì gọi giùm cảnh sát. Quý vị cứ lo ngồi đó
quán chiếu thì chỉ tội cho cái thân già của tôi phải ngũ dưới gầm cầu theo kiểu ngũ dưới hải đăng ngày trẻ!